Tấm lòng của Bác với Thương binh, Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2019)
“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” vừa là đạo lý thiêng liêng, vừa là giá trị đạo đức và lối ứng xử cao đẹp trong đời sống văn hóa của người Việt. Truyền thống tốt đẹp này đã và đang được nhân dân phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Người yêu thương chiến sỹ như con và Người cũng đặc biệt quan tâm đến thương binh, liệt sỹ, những người đã hy sinh xương máu, cuộc đời mình vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước của nhân dân ta, có biết bao nhiêu chiến sỹ cộng sản, quần chúng yêu nước đã ngã xuống, hy sinh nơi chiến trường khốc liệt để xây nên giang sơn gấm vóc hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ…”. Chiến tranh kết thúc, có những người con đã trở về từ trận tuyến, nhưng cũng có không ít những người mãi mãi ra đi, lại có những người đã để lại một phần máu thịt của mình - các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các đồng chí thương binh hỏng mắt năm 1956.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ - những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Dù bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn luôn dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, liệt sỹ cùng gia đình họ. Nội dung tư tưởng, những tình cảm thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho thương binh, liệt sỹ được thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt, cụ thể, thiết thực trong rất nhiều bài nói, bài viết, trong hành động và việc làm của Người.
Nhằm chia sẻ nỗi đau của hàng triệu thân nhân liệt sỹ, những bậc ông bà, cha mẹ, những người chồng, người vợ và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại những người thân yêu nhất của mình, ngày 07/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Thông báo về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi” với lời lẽ đơn giản mà chân thành, gây xúc động mạnh mẽ lòng người: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sỹ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho các gia đình liệt sỹ đó, và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”.
Lòng thương người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở sự đồng cảm với những người thân trong gia đình bị mất con, em vì hy sinh cho Tổ quốc, song rất đỗi tự hào vì được “Tổ quốc ghi công”. Thật vô cùng xúc động và cảm kích khi đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bác sỹ Phạm Đình Tụng, khi được tin con trai ông hy sinh: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột”.
Tiếp đó, Bác Hồ đã ký một loạt Sắc lệnh nhằm giải quyết chế độ chính sách cho thương binh, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, như: Sắc lệnh số 20-SL, ngày 16/02/1947 quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thương nhân tử sỹ; Sắc lệnh số 58-SL ngày 06/6/1947, tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập để thưởng hoặc truy tặng cho đoàn thể hay những người có công với nước, với dân hoặc tặng cho các nhân vật ngoại quốc đã có công với nước Việt Nam và quy định việc tặng thưởng,…
Tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm Ngày Thương binh Liệt sỹ để cho đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái và tấm lòng yêu mến thương binh. Thực hiện Chỉ thị của Bác, tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, một Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành Trung ương, khu, tỉnh tham gia. Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7 làm ngày Thương binh liệt sỹ. Sau Hội nghị đó, ngày 17/7/1947 Bác viết một bức thư gửi Ban Thường trực Ban Tổ chức ngày Thương binh liệt sỹ. Bác đề nghị phát động phong trào nhịn ăn 3 tháng một bữa để giúp đỡ thương binh. Bác nói việc này ai cũng có thể làm được, trừ những cụ già thượng thọ, các cháu bé sơ sinh, bộ đội ở mặt trận, những người đau yếu. Trong thư Bác cũng tự mình tham gia vào ngày lễ đầu tiên này, Người viết: “Tôi xin xung phong gửi một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng” (1.127đ)”.
Năm 1951, nhân Ngày Thương binh Liệt sỹ, Bác viết thư gửi Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh. Kèm theo thư Bác gửi mấy bộ quần áo của đồng bào các nơi biếu Bác tới các thương binh kiểu mẫu. Bác nhắc nhở các cấp, các đoàn thể và đồng bào có những biện pháp lâu dài, thiết thực để đền đáp lại cho xứng đáng với sự hy sinh, mất mát của anh em thương binh. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc nhân dân ta khắp các địa phương đều tích cực tham gia phong trào đền ơn đáp nghĩa. Phong trào đã lôi cuốn đông đảo tuổi trẻ tham gia dưới tên gọi phong trào Trần Quốc Toản và đã đem lại hiệu quả rất thiết thực cho chính sách thương binh của Đảng và Nhà nước ta. Chiều ngày 31/12/1954, trước thềm năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta đặt vòng hoa viếng các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc. Tại buổi lễ trang trọng này, đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác đọc Diễn từ. Bác viết:
“Hỡi các liệt sỹ, ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ. Các liệt sỹ đã hy sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sỹ đã ghi sâu vào lòng dạ của toàn dân và non sông đất nước...Máu nóng của các liệt sỹ đã nhuộm lá quốc kỳ vẻ vang càng thêm thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sỹ muôn đời lưu truyền với sử xanh.
Một nén hương thành
Vài lời an ủi.
Anh linh của các liệt sỹ bất diệt.
Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm.”
Đối với các thương binh Bác Hồ luôn dành một tình cảm đặc biệt. Đêm Giao thừa Tết Nguyên Đán Bính Thân (12/02/1956) Người đã đến thăm Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội. Bác khuyên anh chị em thương binh “tàn nhưng không phế”. Câu nói của Bác giản dị mà sâu sắc in đậm trong trái tim mọi người. Hằng năm, cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”.
Ảnh: Các đồng chí lãnh đạo huyện và cán bộ, nhân dân Huyện Ea H’Leo dâng hoa viếng nghĩa trang Liệt sỹ.
Những hành động của Bác không chỉ là sự tiếc thương mà còn thể hiện sự tự hào, gợi lên tinh thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người đã hy sinh sự sống của mình cho độc lập của Tổ quốc. Người đã gắn sự tổn thất lớn lao của những thương binh, liệt sỹ vào ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của những người được sống trong hòa bình hôm nay. Trước lúc đi xa, Bác đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta Bản Di chúc lịch sử, trong đó có phần viết về chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và những người đã kinh qua chiến đấu. Bác viết: "Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh".
Nhân kỷ niệm 72 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2019), chúng ta càng thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và thực hiện tốt hơn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, góp phần tri ân đối với những người đã ngã xuống, những người đã gửi lại một phần thân thể của mình nơi chiến trường cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, noi gương Bác, làm theo lời Bác. Trong những năm qua, huyện Ea H’Leo đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm quan tâm, chăm lo đến đời sống của các gia đình liệt sỹ, những thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng thông qua các hoạt động: Tặng quà cho các gia đình có công với cách mạng, gia đình chính sách, xây nhà tình nghĩa, lập Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng các Mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ và giúp đỡ các nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam, giúp đỡ thương bệnh binh và gia đình liệt sỹ, tìm mộ liệt sỹ, v.v…Từ sự quan tâm đó, có nhiều người thương bệnh binh, con em gia đình liệt sỹ đã biết phát huy trong hoàn cảnh mới để xứng đáng là những “Công dân kiểu mẫu”, những “Gia đình cách mạng gương mẫu trong thời kỳ đổi mới./.
Nguồn: Tuyết Mai – Phòng VH&TT