Thứ bảy, ngày 16 tháng 08 năm 2025
Bình Chọn
Đánh giá thái độ phục vụ của cán bộ tiếp nhận hồ sơ ?
THỐNG KÊ TRUY CẬP

Hôm nay:

Hôm qua:

Trong tuần:

Tất cả:

Cập nhật lúc: 21/08/2019

Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và tinh thần đại đoàn kết (20/8/1888 - 30/3/1980)

Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một tấm gương về lòng nhân ái, thủy chung, khoan dung, nhân hậu, một người con hiếu thảo, với tên gọi thân thương Bác Tôn còn là hình mẫu về lối sống, nhân cách, đạo đức cách mạng cần kiệm, liêm chính, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn từ một công nhân, lính thợ đến tổ chức đấu tranh cách mạng, từ ngục tù Côn Đảo đến tham gia kháng chiến, và trải qua các chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo Đảng, Nhà nước cho đến khi làm Chủ tịch nước vẫn luôn toát lên sự khiêm tốn, giản dị của một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và điển hình của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ảnh: Chủ tịch Tôn Đức Thắng đến Sài Gòn dự lễ mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc sáng 13/5/1975.

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng sôi nổi, phong phú, đầy gian lao, thử thách của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng mà đồng bào, đồng chí trìu mến gọi là Bác Tôn kính mến gắn liền với lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc ta trong thế kỷ 20. Là người con ưu tú của quê hương An Giang giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, ngay từ khi còn là học sinh, Đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Trong những năm tháng tuổi trẻ bôn ba ở nước ngoài, hoạt động trong phong trào công nhân, công đoàn Pháp, Đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở Biển Đen ngày 20/4/1919, ủng hộ Cách mạng tháng mười Nga vĩ đại, chống sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc đối với Nhà nước Xô Viết non trẻ, góp phần bảo vệ thành trì của cách mạng vô sản thế giới.

Vốn là người có tư chất thông minh, thành thạo tiếng Pháp, giỏi về kỹ thuật cơ khí, lại có tính tự lập cao nên Chủ tịch Tôn Đức Thắng bắt đầu cuộc sống làm thợ, hòa mình vào phong trào công nhân từ năm 1907; trở thành hạt nhân lãnh đạo các cuộc đấu tranh bãi khóa của học sinh Trường Bá Nghệ và là người tổ chức các cuộc bãi công, đòi quyền sống của công nhân Ba Son năm 1912. Sau đó, để tránh sự lùng bắt của thực dân Pháp, Đồng chí đã cải trang và trở thành lính thợ làm việc trên chiến hạm France của Pháp. Tuy nhiên, do các hoạt động ủng hộ nước Nga Xô Viết, nhất là tham gia sự kiện kéo cờ đỏ phản chiến của Hải quân Pháp ở Biển Đen nên đồng chí bị chính quyền Pháp trục xuất. Trở về nước năm 1920, với lòng yêu nước nhiệt thành, đồng chí Tôn Đức Thắng đã kết hợp kinh nghiệm hoạt động của phong trào công nhân, công đoàn Pháp với thực tiễn phong trào yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam, trước hết là phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, để tìm ra những hình thức, phương pháp tổ chức đấu tranh thích hợp. Cuối năm 1920, đồng chí đã tập hợp anh em công nhân cùng chí hướng thành lập Công hội bí mật - tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Công hội do đồng chí lãnh đạo đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình, bãi công, lãn công, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Ba Son (tháng 8/1925), đánh dấu bước phát triển mới về tinh thần đoàn kết và tính tổ chức của giai cấp công nhân nước ta. Năm 1927, tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập, bắt đầu hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở Nam Bộ. Đồng chí Tôn Đức Thắng gia nhập tổ chức này và giữ trọng trách Ủy viên Kỳ bộ Nam Bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn - Chợ Lớn. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ. Năm 1929, đồng chí Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt và kết án 20 năm tù khổ sai. Gần 17 năm bị giam cầm trong nhà tù thực dân ở Khám Lớn Sài Gòn và Côn Đảo, phải chịu đủ cực hình tra tấn dã man của kẻ thù, đồng chí luôn giữ vững khí tiết kiên trung, bất khuất của người chiến sĩ cách mạng, là một trong những người thành lập Hội những người tù đỏ và sáng lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo làm hạt nhân lãnh đạo, tạo sức mạnh chống chế độ lao tù tàn bạo, đấu tranh bảo vệ Đảng, biến lao tù thực dân, đế quốc thành Trường học của những người cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa”. Những ngày tháng bị tù đày trong ngục tù đế quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lĩnh hội và thể hiện đầy đủ tinh thần nhân văn cao cả đó là: sống chí tình, chí nghĩa, nhân ái, thủy chung với đồng chí, bạn bè và những người cùng cảnh ngộ.

Cách mạng tháng tám thành công, đồng chí thoát khỏi nhà tù, gông xiềng đế quốc. Vừa đặt chân đến đất liền, chưa kịp về thăm gia đình thì cuộc kháng chiến bùng nổ, đồng chí lại lao ngay vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Năm 1954 (sau chín năm kháng chiến thắng lợi), tại Hà Nội, gia đình Bác Tôn mới được hội ngộ. Đây là một hình ảnh tiêu biểu cho tấm gương hết lòng vì sự nghiệp cách mạng, “Vì nước quên nhà” của Bác Tôn. Trong vòng 35 năm (1945 - 1980), đồng chí Tôn Đức Thắng đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, như: Tổng Thanh tra Chính phủ, Quyền Bộ Trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua ái quốc Trung ương, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc, Hội Trưởng Hội Hữu nghị Việt Nam - Liên Xô, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước, v.v. Dù ở cương vị trọng trách nào, đồng chí cũng luôn tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể, phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần cùng với Bác Hồ, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc, lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Bác Tôn là con người vô cùng giản dị, vẫn là người công nhân, vẫn giữ cái búa, cái kìm... và tự chữa lấy xe đạp của Bác. Bác Tôn của chúng ta là một con người như thế, một người công nhân tiêu biểu cho tinh thần cách mạng, đạo đức cách mạng cao quý nhất của giai cấp công nhân, của Đảng ta, của dân tộc Việt Nam chúng ta”.

Nhân dịp sinh nhật lần thứ 70 (20/8/1958), Đồng chí được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - Phần thưởng cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đồng chí cũng lại là người đầu tiên được nhận. Tại Lễ trao tặng, Bác Hồ đã đánh giá: “Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng tháng mười vĩ đại” và “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần kiệm liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên tất cả phẩm chất đạo đức cách mạng, sự cống hiến của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng và nền hòa bình, phong trào cách mạng thế giới nói chung.

Cuộc đời gần 70 năm hoạt động cách mạng của Chủ tịch Tôn Ðức Thắng là một tấm gương mẫu mực về lối sống khiêm tốn, giản dị, chân thành gần gũi đồng chí, đồng bào, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn. Di sản quý giá mà đồng chí Tôn Ðức Thắng để lại cho Ðảng ta, nhân dân ta là phẩm chất đạo đức cao đẹp của người cộng sản, là sự hội tụ khí chất hào hiệp của người dân vùng sông nước Nam Bộ, là ý chí kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam. Ðồng thời, ở đồng chí là sự hội tụ tinh túy của tinh thần yêu nước, thương dân, sự cảm thông, hòa đồng với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng, dù khó khăn, gian khổ, không dao động, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân./.

Nguồn: Tuyết Mai – Phòng VH&TT 

In Gửi Email

CÁC CHUYÊN MỤC KHÁC

ipv6 ready
Chung nhan Tin Nhiem Mang